Lên ngôi Trùng_Quang_Đế

Ngày 17 tháng 3 âm lịch năm 1409, Trần Quý Khoáng lên ngôi Hoàng đế ở Chi La, nay thuộc huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Tân hoàng đế đặt niên hiệu Trùng Quang (重光), phong Nguyễn Súy làm Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, Đặng Dung làm Đồng bình chương sự, Nguyễn Chương làm Tư mã.[8] Bấy giờ Giản Định đang đóng giữ thành Ngự Thiên; Trùng Quang sai Nguyễn Súy đem quân đánh úp, bắt được Giản Định. Ngày 7 tháng 4 âm lịch cùng năm, mẹ Giản Định Đế liên kết với Hành khiển Lê Triệt và Lê Nguyên Đỉnh dấy quân ở Hát Giang, định đánh úp vua Trùng Quang. Người Nghệ An là Nguyễn Trạo phát giác báo cho Trùng Quang Đế. Nhà vua giết Triệt và Đỉnh nhưng tha hết quân của họ.[8] Đối chiếu sự kiện này với việc Giản Định giết 2 tôn thất theo Minh là Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Giao cùng hơn 500 thuộc hạ ở Diễn Châu, Nghệ An (1407), sử thần đời Lê Ngô Sĩ Liên cho rằng vua Trùng Quang có phẩm chất lãnh đạo tốt hơn Giản Định:[9]

"Thiên hạ đại loạn, nhân dân Nghệ An, Diễn Châu biết ai là chân chúa. Thúc Dao là con người tôn thất, Nhật Chiêu là tướng quân cũ, nhận quan tước của nhà Minh, giữ đất, trị dân, dân không theo có được không? Giết Thúc Dao và Nhật Chiêu là phải, còn bọn thuộc hạ nên vỗ về mà dùng, thì chúng không cảm kích ơn đức đó hay sao? Thế là lại giết nhiều như vậy, sao gọi là quân nhân nghĩa được? Xem như Lê Tiệt và Lê Nguyên Đỉnh nhầm họp quân ở Hát Giang, mưu đánh úp Trùng Quang Đế, mà Trùng Quang Đế chỉ có Tiệt Đế và Nguyễn Đỉnh thôi, còn đều tha cả, so với Giản Định Đế thì đằng nào hơn?"

Ngày 20 tháng 4 âm lịch, Giản Định bị dẫn về Nghệ An, Trùng Quang khiêm nhường mặc thường phục xuống thuyền đón rước, tôn Giản Định làm Thái thượng hoàng.[8] Ở thời Trần, tên nước là Đại Việt, từ khi nhà Hồ soán ngôi đã đổi thành Đại Ngu.[10] Sử Việt không chép tên nước của Trùng Quang Đế; tuy nhiên, trong Hoàng Minh thực lục có ghi Trùng Quang Đế là "ngụy hoàng đế Đại Việt", vậy chứng tỏ Trùng Quang Đế đã dùng quốc hiệu Đại Việt.

Tháng 7 âm lịch năm 1409, vua Trùng Quang cùng Thượng hoàng chia quân hai đường đánh quân Minh. Thượng hoàng Trần Ngỗi đóng ở Hạ Hồng (Ninh Giang, Hải Dương), vua Trùng Quang đóng ở Bình Than. Quân Minh cố thủ không dám ra đánh. Trùng Quang sai quân đi tuần tra 4-5 ngày 1 lần. Hai vua được hào kiệt các lộ ủng hộ nhiệt liệt, duy chỉ có Tri phủ Tam Giang là Đỗ Duy Trung vẫn theo Minh.[8] Đến khi vua Minh sai Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ đeo ấn Chinh Di tướng quân đem quân cứu viện, quân Minh lại mạnh lên. Thượng hoàng thấy liền rời thuyền chạy lên trấn Thiên Quan, Trùng Quang nghi ngờ Thượng hoàng có lòng khác, liền sai người đuổi theo. Nguyễn Súy đuổi theo không kịp, nhưng Trương Phụ lại bắt được Thượng hoàng Trần Ngỗi, giải về Kim Lăng giết chết.[8]

Tháng 8 âm lịch năm 1409, vua Trùng Quang chống nhau với Trương Phụ ở Bình Than. Nhà vua sai Đặng Dung trấn giữ cửa Hàm Tử. Quân Việt thiếu lương thực trầm trọng, Đặng Dung bèn chia quân đi gặt lúa sớm để cấp cho binh lính. Trương Phụ nhân lúc quân Việt đang yếu liền đem thủy quân đánh vào cửa Hàm Tử. Đặng Dung thua to. Trùng Quang nghe tin, tự liệu chống không nổi, bèn dẫn quân lui về Nghệ An.[8][2]

Đại Việt Sử ký Toàn thư kể Trùng Quang Đế có một bà phi mất vào tháng 6 âm lịch năm 1409.[8]